Vị trí cung Mệnh

1- Tại Tí – Ngọ – Mão – Dậu 

Là đất bại địa, cũng là Đào Hoa địa. Phàm đương số lập Mệnh tại đất Tí – Ngọ – Mão – Dậu là người có cá tánh linh hoạt, hướng ngoại, đối nhân nhiệt tình, cởi mở, ứng xử giao tiếp giỏi với người khác, bản tính vui vẻ, lạc quan. Dù thích làm việc, nhưng thích tận hưởng cuộc sống cũng không kém. Là người hay sáng tạo ra điều mới.

Khi công việc thuận lợi thì rất lạc quan, nhưng khi công việc rơi vào bế tắc thì cũng hay bi quan, nhưng sẽ lạc quan liền ngay sau đó. Thường ít bị sầu não trong 1 thời gian dài.

Nếu năm sinh có Hóa Lộc tại Tí – Ngọ – Mão – Dậu ngay Mệnh cung càng cho thấy người này có xu hướng thích hưởng thụ xa hoa, phồn lạc. Thường đối xử tốt với bạn bè, ngọt ngào lãng mạn với tình nhân, hảo mỹ tửu cùng mỹ nhân. Là người phong lưu đa tình, dễ phiêu lưu mạo hiểm trong vấn đề tình ái. Nếu có thêm sự phối hợp của Đào Hoa tinh thì càng tô đậm thêm tính chất đa tình, phong lưu. Đặc biệt Mệnh an tại Mão Dậu thì dễ phiêu lưu hơn Mệnh an tại Tí – Ngọ. Tình cảm thường phức tạp, đào hoa nhiều hơn, thương xa quê hương, bản quán, bôn ba bên ngoài nhiều. Công việc cũng hay mang tính chất đối ngoại. Thường khi luận tính tình cho đương số tại các cung này, nên xét có sự tọa lạc của sao Đào Hoa hay không.

Mệnh an tại đất tứ bại, Tài cung tại đất Mã nên cũng hay bôn ba vì tiền, bận rộn kiếm tiền. Quan cung tại đất Tứ Mộ duy bảo thủ, thường cần mẫn chăm chỉ làm việc, và hay chọn làm những công việc vì lý tưởng và sự yêu thích của bản thân với công việc đó

2- Tại Thìn – Tuất – Sửu – Mùi 

Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là đất Mộ Khố, Khố cũng chủ Tài. Như Mệnh được lập tại đất Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, là người có cá tính độc lập, bảo thủ, không khinh địch, có khuynh hướng ít tâm sự, thường ứng xử ngoại giao không khéo, bề ngoài cục mịch, trầm mặc, nhưng bên trong thường có nhiều xung động, là người bảo thủ và cô độc. Nếu Mệnh thuộc bộ Sát Phá Tham thì ly hương sẽ tốt, nếu không tất khắc lục thân.

Thìn là đất Thiên La, Tuất là đất Địa Võng. Ở 2 nơi này là nơi giao nhau giữa Trời và Đất, khởi sự cho việc lập thành con người. Con người tại đất này bị kềm kẹp bởi Trời và Đất nên chí hướng thường muốn bay cao bay xa, nhưng thân thì bị bủa vây khó thoát, nên thường bất mãn về tâm lý không hài lòng, sinh ra muốn phản kháng, phá vỡ hơn là những người có Mệnh tọa lập tại Sửu – Mùi.

Bận rộn vì tiền và hay có suy nghĩ cần phải kiếm thật nhiều tiền. Khi muốn tiêu tiền, thì họ hay có suy nghĩ phải kiếm được tiền trước rồi mới tiêu. Ngay cả năm sinh có Hóa Lộc đồng cung thì tính này cũng không thay đổi. Nếu như năm sinh có Hóa Kỵ đồng cung, có tên gọi là Khố Kỵ, Kỵ vào đất tắc sẽ phản vi kỳ, không nên kiến thêm Hóa khác, sẽ tắc tiết xuất vô tài.

Phàm lập Mệnh cung tại đất Thìn – Tuất – Sửu – Mùi, Tài cung tại đất Tứ bại. Họ sống thực tế và muốn kiếm thật nhiều tiền, họ không quan tâm đến việc họ kiếm được bao nhiều gọi là nhiều. Quan cung tại đất Tứ Mã. Công việc họ đang làm, họ làm vì bổn phận và trách nhiệm, sau đó mới là tiền.

3- Tại Dần – Thân – Tỵ – Hợi:

Dần – Thân – Tỵ – Hợi là đất Trường Sinh, cũng là đất Tứ Mã, tượng người được sinh ra, là hình ảnh của sự nảy mầm. Tuy nhiên chu kỳ không giống nhau, vì 4 vị trí này theo chu kỳ sinh trưởng rơi vào các giai đoạn Trường Sinh – Lâm Quan – Bệnh – Tuyệt. Nên khi luận đoán về tính tình của những người có Mệnh cung tọa lập tại nơi này cần phải xét thêm họ đang ở giai đoạn nào của sự sinh trưởng, những người này là người hay có hi vọng, tràn trề sức sống, rạng rỡ, hoạt động thường hay thay đổi, sống động, bốc đồng, hay chạy nước rút, ưa công lý phán xét.

Phàm lập Mệnh tại Dần – Thân – Tỵ – Hợi là đất Tứ Sinh, Tứ Tuyệt và cũng là đất Tứ Mã. Nên họ thường có xu hướng quán triệt, tuyệt đối hóa mọi việc, nhưng lại dễ dàng thay đổi. Cá tính hiếu động, hoạt bát, vui vẻ thích du lịch đó đây. Như Mệnh cung hội tụ các sao Nhật, Nguyệt, Thiên Cơ, Sát Phá Tham thường mang tính biến động nhiều hơn. Nếu như Mệnh tọa tại các đất này có Phủ, Tướng sẽ giảm bớt sự biến động, có xu hướng ổn trọng hơn.

Như năm sinh có Hóa Kỵ tại 4 đất này, còn gọi là Mã Kỵ. Thế Kỵ sở chi cung vị, tất khắc lục thân, với lục thân thường duyên mỏng, tốt nhất không nên ở cùng 1 chỗ, hoặc thường tụ ít ly nhiều. Như cung Phu Thê cư tại đất này thêm Hóa Kỵ thường 2 lần hôn phối.

Hoặc như Hóa Lộc tại đất Tứ Mã thường phải li hương bỏ tỉnh, bôn ba xứ khác kiếm tiền. Cố phàm Dần – Thân – Tỵ – Hợi cùng Tứ Hóa cũng chủ bôn ba lao lục, biến động dịch mã.

Phàm lập Mệnh tại Dần – Thân – Tỵ – Hợi, đất Tứ Sinh, tất Tài Bạch cung tại Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là đất Tứ Mộ, nên cảm giác thường nặng nề về tiền tài. Số phận hay bị thay đổi bởi những lý do liên quan đến tiền. Quan cung tại đất Tứ Bại, thường muốn nhận được những công việc có tính chất thoải mái, không muốn bị áp lực, gò bó, tuy nhiên trong công việc họ thường hay bị điểu khiển và chi phối của người khác.

-Trúc Lâm-

Leave a comment